Vững một niềm tin - Bài 2: Vượt qua khủng hoảng
- Tổng kết sát thực tiễn, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, chỉ rõ khuyết điểm là cơ sở để Đảng bộ tỉnh đề ra các chủ trương, giải pháp đúng đắn, phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế, lãnh đạo Nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới.

Đại hội VI của Đảng khẳng định “Đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại”; “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”; “Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”. Là một tỉnh tuyến đầu, yêu cầu về đổi mới để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng – an ninh của Lạng Sơn là rất lớn và khẩn trương.
Lãnh đạo thực hiện 3 chương trình kinh tế
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X - 1986 là nhiệm kỳ đầu tiên đồng chí Đoàn Bá Nhiên (nguyên Phó Bí thư Tỉnh uỷ, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh) được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, khi ấy đồng chí đang giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Kế hoạch tỉnh. Kể về không khí đại hội lúc bấy giờ, đồng chí Đoàn Bá Nhiên nhớ lại: Trong 6 ngày diễn ra đại hội (từ ngày 10 đến ngày 15/10/1986), không khí thảo luận rất sôi nổi, dân chủ. Khuyết điểm, nguyên nhân, tiềm năng, lợi thế được các đại biểu phân tích rất kỹ để từ đó hoạch định chiến lược, phương hướng, nhiệm vụ về phát triển kinh tế trong 5 năm tới. Trong đó tập trung vào các vấn đề lớn như: bố trí đúng cơ cấu sản xuất và đầu tư; làm chủ phân phối lưu thông; nâng cao chất lượng quan hệ sản xuất mới; đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật; xuất nhập khẩu và liên kết kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, đại hội đã xác định nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong giai đoạn 1986 - 1990. Trong đó về kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá dưới sự tác động của quy luật giá trị; xoá bỏ mô hình và phương thức tổ chức quản lý sản xuất theo kiểu tập trung quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh; mở cửa giao thương; xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu.
“Công cuộc Đổi mới của Đảng như một luồng gió mới khơi dậy tiềm năng, thổi bùng khát vọng của người dân. Vẫn đồng đất ấy, con người ấy, nhưng nếp nghĩ, cách làm nay đã khác, chỉ sau 1-2 vụ, người Bắc Xa đã không còn phải lên rừng đào củ mài để ăn, lương thực được đảm bảo”.
Ông Kỳ Dùng Phú, nguyên Chủ tịch UBND xã Bắc Xa, huyện Đình Lập (cũ) giai đoạn 1987-1994
|
Thực hiện quan điểm đổi mới của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các cấp uỷ, tổ chức đảng tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập, nghiên cứu các văn kiện và xây dựng các chương trình hành động cụ thể, phù hợp để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó trọng tâm là thực hiện ba chương trình kinh tế lớn. Điểm đặc biệt là ngoài thực hiện ba chương trình kinh tế của Trung ương, căn vào tình hình thực tế của tỉnh, Đảng bộ tỉnh chủ động đề ra chương trình sản xuất vật liệu xây dựng.
Theo đó, trong sản xuất nông, lâm nghiệp, Đảng bộ tỉnh tập trung lãnh đạo thực hiện cơ cấu quản lý mới, trước hết là giao ruộng đất cho người nông dân sử dụng lâu dài, xác định mỗi hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, làm cho người nông dân yên tâm sản xuất. Cùng đó chỉ đạo các cấp, ngành, đơn vị liên quan đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu giống và đưa tiến bộ, khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; gắn sản xuất nông lâm nghiệp với phát triển tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, coi trọng công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với lưu thông, tiêu thụ sản phẩm.
Về sản xuất hàng tiêu dùng, trong bối cảnh tỉnh chưa có công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển, các cơ sở nhỏ lẻ bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, Tỉnh uỷ đã tập trung chỉ đạo vừa khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sản xuất, vừa khai thác hàng tiêu dùng ở các nơi khác, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế tự do lưu thông hàng hoá. Nhờ đó lượng hàng tiêu dùng trên địa bàn tỉnh khá dồi dào, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của Nhân dân.
Đối với sản xuất vật liệu xây dựng, tỉnh tập trung đầu tư hoàn chỉnh một số đơn vị sản xuất gạch ngói, xi măng và đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ bản các công trình hạ tầng sử dụng vật liệu của các đơn vị trên địa bàn sản xuất. Bà Lương Thị Luyến, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Giám đốc Công ty Cổ phần Gạch ngói Hợp Thành nhớ lại: Năm 1985 tôi vào công ty, làm ở bộ phận thống kê, chấm công, chấm sản phẩm. Lúc bấy giờ sản xuất hoàn toàn là thủ công, cách quản lý cũng còn rất nhiều hạn chế, nên năng suất lao động không cao, sản lượng gạch cả năm của công ty chưa nổi 1 triệu viên. Thế nhưng bước sang năm 1986, đặc biệt là từ cuối 1986 đến đầu năm 1987, mọi chuyện đã thay đổi, công ty được đầu tư cơ giới vào một số khâu, hệ thống khoán, cách quản lý cũng chuyển biến rất lớn, chỉ trong vòng 1 năm sản lượng gạch của công ty đã tăng gấp đôi và năm sau tăng gấp ba lần.
Đối với hàng xuất khẩu, đồng chí Đoàn Bá Nhiên, nguyên Phó Bí thư Tỉnh uỷ, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh cho biết: Trong bối cảnh bao vây, cấm vận lúc bấy giờ, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo mở rộng liên doanh, liên kết với các đơn vị ngoài tỉnh, hình thành một số vùng chuyên canh như vùng trồng gừng; vùng trồng dược liệu; vùng hồi; vùng thuốc lá; vùng trồng mây; vùng quýt…kết hợp với mở rộng thị trường xuất khẩu mới. Qua đó giai đoạn 1986 -1990, hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh đã từng bước phát triển với các sản phẩm mây tre đan, gậy trượt tuyết, cần câu xuất khẩu sang Liên Xô; tinh dầu hồi xuất khẩu sang Pháp, Đài Loan…
Luồng gió mới
Trở lại với câu chuyện của xã Bắc Xa, huyện Đình Lập (cũ), ông Kỳ Dùng Phú, nguyên Chủ tịch UBND xã giai đoạn 1987-1994 kể: Công cuộc Đổi mới của Đảng như một luồng gió mới khơi dậy tiềm năng, thổi bùng khát vọng của người dân. Thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh, trước hết xã chỉ đạo các thôn phân chia lại đất ruộng, đất rừng, tập trung cải tạo hạ tầng phục vụ sản xuất như giao thông, thuỷ lợi. Dưới ruộng, UBND xã liên hệ, cung ứng giống lúa mới cho người dân; trên rừng, xã phối hợp với Lâm trường Đình Lập tổ chức tập huấn khoa học kỹ thuật để người dân chăm sóc hiệu quả diện tích rừng đã có; hình thành một số vườn ươm để cung cấp cây giống để phủ xanh đồi núi trọc. Vẫn đồng đất ấy, con người ấy, nhưng nếp nghĩ, cách làm nay đã khác, chỉ sau 1-2 vụ, người Bắc Xa đã không còn phải lên rừng đào củ mài để ăn, lương thực được đảm bảo.
Không chỉ riêng ở Bắc Xa, sau 10 năm thực hiện công cuộc Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, với sự đồng lòng của Đảng bộ và Nhân dân trong tỉnh, Lạng Sơn đã có những bước chuyển mình quan trọng. Đến năm 1995 nền kinh tế hàng hoá dần hình thành, phát triển và vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhịp độ tăng trưởng khá nhanh và liên tục, tính trong giai đoạn 1991-1995 là 11,54%. Kết cấu hạ tầng nông thôn được củng cố, tăng cường; sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản đã từng bước vượt qua thời điểm khó khăn của những năm đầu đổi mới, nhịp độ tăng trưởng duy trì 13%/năm trong giai đoạn 1991-1995; các hoạt động xuất nhập khẩu, du lịch, dịch vụ ngày càng được mở rộng và phát triển đa dạng và dần trở thành lợi thế quan trọng để tăng thu ngân sách, thu hút vốn đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội…
Những thành tựu về phát triển kinh tế trong 10 năm đầu tiến hành công cuộc đổi mới là rất quan trọng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được nâng lên. Đến năm 1995, thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn tỉnh đạt 173,7 USD.
Tuy nhiên, với xuất phát điểm thấp, lại bị tàn phá bởi chiến tranh, so với cả nước Lạng Sơn vẫn là tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người tuy có tăng, nhưng chưa bằng ½ bình quân chung cả nước.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII diễn ra từ ngày 24 đến ngày 26/4/1996 đã chỉ rõ các nguyên nhân của hạn chế yếu kém và từ thực tiễn đã rút ra một số bài học kinh nghiệm: “Phải nắm vững quan điểm của Đảng, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; xây dựng đảng là khâu then chốt; quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ thường xuyên, rất quan trọng. Trên cơ sở quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, cần phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo, định ra bước đi và cách làm phù hợp. Do xuất phát điểm của tỉnh còn thấp, vì vậy cần thực hiện tốt phương châm tự lực, tự cường, phát huy tiềm năng thế mạnh của địa phương, của các thành phần kinh tế nhưng phải biết tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương, của các tỉnh bạn và nước ngoài…”.
Những bài học kinh nghiệm, sự chuyển biến bước đầu về tư duy kinh tế là cơ sở quan trọng để Đảng bộ tỉnh hoạch định chiến lược và lãnh đạo Nhân dân các dân tộc Lạng Sơn bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh và bền vững.
(Còn nữa)
Ý kiến ()