Vững một niềm tin (Bài 1)
- Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là lựa chọn mang tính lịch sử, có ý nghĩa to lớn, phù hợp thực tiễn Việt Nam, quy luật, xu thế phát triển chung của thời đại. Dưới ánh sáng soi đường của Đảng, Đảng bộ tỉnh đã từng bước đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, năng động, sáng tạo lãnh đạo Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đạt được những thành tựu to lớn. Từ một tỉnh miền núi, biên giới nghèo nàn, lạc hậu, Lạng Sơn đã vươn mình mạnh mẽ, từng bước khẳng định là trung tâm kinh tế của khu vực trung du và miền núi phía Bắc, là cửa ngõ giao thương quan trọng của cả nước. Những thành tựu trong hành trình đổi mới ấy đã củng cố niềm tin vững chắc của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thổi bùng khát vọng vươn lên. Đây là tiền đề quan trọng để Lạng Sơn cùng cả nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bài 1: Nhìn thẳng vào sự thật
Cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, sau hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vết thương còn chưa kịp “kéo da non”, Nhân dân ta lại phải bước vào cuộc chiến bảo vệ biên giới. Mà đâu chỉ có thế, các thế lực thù địch điên cuồng xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam; bao vây, cấm vận về kinh tế. Cùng với những tác động từ bên ngoài, trong nội tại, cơ chế quản lý kinh tế chậm đổi mới đã khiến kinh tế - xã hội nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát có lúc lên tới 774% (năm 1986), đời sống Nhân dân cực kỳ khó khăn.

Trong bối cảnh chung của đất nước, Lạng Sơn với đặc thù của tỉnh miền núi, biên giới, hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu lại bị tàn phá bởi chiến tranh khiến cho khó khăn càng thêm gấp bội.
“Đêm trước” đổi mới
Năm nay tròn 80 tuổi, khi nhắc lại câu chuyện của hơn 40 năm về trước, ông Kỳ Dùng Phú thôn Bản Mạ, xã Bắc Xa, huyện Đình Lập (cũ) (nguyên chủ tịch UBND xã Bắc Xa từ năm 1987 đến năm 1994) vẫn nhớ như in. Ông kể: Nhớ nhất là đói, cả năm chả mấy bữa có cơm trắng, toàn phải độn. Đến mùa giáp hạt thì cơm độn cũng không có, người dân phải lên rừng để đào củ mài ăn. Mà Bắc Xa đâu phải là không có rừng có ruộng, đất rừng nhiều là khác nhưng bà con chưa biết cách làm, giống, kỹ thuật, hạ tầng phục vụ sản xuất đều khó khăn, thiếu thốn. Bấy giờ trên địa bàn xã cũng có hai hợp tác xã, nhưng vì cơ chế quản lý không còn phù hợp nên hoạt động cầm chừng rồi dừng hẳn.
Không chỉ riêng ở xã Bắc Xa, sản xuất nông lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh từ cuối những năm 70 đến giữa thập niên 80 của thế kỷ trước gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động của các hợp tác xã sa sút. Theo thống kê, thời kỳ này diện tích các loại cây công nghiệp của tỉnh như hồi, trẩu, sở giảm đi rất nhiều; sản lượng lương thực và lương thực bình quân đầu người cũng có xu hướng giảm, nếu như năm 1965, sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 267,6kg/người thì 20 năm sau, đến năm 1985 con số này chỉ còn 235,5kg/người.
Trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1979, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh có những bước phát triển ban đầu rất quan trọng. Thời kỳ này, các hợp tác xã và tổ hợp tác tiểu thủ công nghiệp phát triển khá nhanh, đây cũng là thời kỳ hình thành và phát triển của các cơ sở công nghiệp quốc doanh và các khu công nghiệp tương đối tập trung của tỉnh như: Mỏ than Na Dương; Nhà máy Xi măng Lạng Sơn; Xí nghiệp Gạch ngói Hợp Thành; Xí nghiệp Chế biến lương thực, thực phẩm… Đến năm 1974 giá trị sản xuất công nghiệp nói chung đạt 21,9 triệu đồng, tăng 20% so với năm 1971 và chiếm tới 22,4% giá trị tổng sản lượng các ngành kinh tế của tỉnh.
Thế nhưng nền công nghiệp non trẻ ấy bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh biên giới (2/1979), 27 xí nghiệp công nghiệp; hơn 50 cơ sở, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng ở thị xã Lạng Sơn, Cao Lộc, Lộc Bình bị phá huỷ.

Hợp tác xã Đồng Tiến có lịch sử thành lập từ năm 1959, tiền thân là Hợp tác xã Rèn Đồng Tiến, sau đó phát triển thành Hợp tác xã Cơ khí Đồng Tiến. Thế nhưng khi mới chuyển từ “Thủ công” lên “Cơ khí” thì chiến tranh biên giới đã khiến cho nhà xưởng của hợp tác xã (trên địa bàn thị xã Lạng Sơn cũ) tan hoang. Ông Đặng Minh Hoà (sinh năm 1955, hiện nay là Giám đốc Hợp tác xã Đồng Tiến) nhớ lại: Năm 1979, tôi chuyển từ Thái Nguyên về làm việc tại phân xưởng cơ khí của hợp tác xã, khi ấy hầu như không còn gì. Phải mất vài năm sau với sự nỗ lực của cả tập thể, hợp tác xã mới bắt đầu hoạt động sản xuất trở lại, nhưng lúc này, cơ chế quản lý lại chậm đổi mới nên hoạt động rất cầm chừng. Phải nói là thời kỳ này làm rất “nhàn”, Nhà nước cấp vật tư cho sản xuất, rồi thu mua toàn bộ để phân phối, người làm không phải lo hạch toán, kinh doanh, thế nhưng như thế không phát triển được. Rồi lạm phát tăng cao, tiền lương của người lao động có khi không mua được sản phẩm do chính mình làm ra…
Không chỉ sản xuất nông lâm nghiệp, công nghiệp mà giao thông vận tải, liên lạc và các ngành dịch vụ trên địa bàn tỉnh thời kỳ đầu những năm 80 của thế kỷ trước đều chậm phát triển, nhiều chỉ tiêu thấp hơn đáng kể so với thời kỳ trước chiến tranh biên giới. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là ở các thôn, xã vùng cao còn rất thiếu thốn, đời sống người dân gặp vô vàn khó khăn. Trong bối cảnh ấy, tháng 7/1986, người dân Lạng Sơn lại phải hứng chịu thiên tai, hơn 77 xã, thị trấn bị nhấn chìm trong trận lũ lịch sử…
Chỉ rõ khuyết điểm
So với cả nước cũng như so với các tỉnh trong khu vực, Lạng Sơn có diện tích không quá lớn, dân số không quá đông, song trong lịch sử từ trước đến nay, mảnh đất vùng biên viễn này vẫn luôn được coi là nơi có vị trí địa lý, kinh tế quan trọng không chỉ đối với vùng Đông Bắc mà với cả vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước. Vậy tại sao kinh tế lại trì trệ, đời sống người dân lại khó khăn đến nhường ấy? Trả lời đúng câu hỏi này, phân tích đầy đủ các nguyên nhân sẽ là “chìa khoá” để Lạng Sơn vươn lên phát triển.
Ngày 1/8/1986, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 33 về việc tổ chức phong trào quần chúng thi đua lập thành tích chào mừng đại hội đảng các cấp, trong đó có nội dung rất quan trọng là phát động sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực góp ý kiến xây dựng văn kiện trình đại hội đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X. Đó chính là tiền đề quan trọng, để trong 6 ngày (từ ngày 10 đến ngày 15/10/1986), tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, các đại biểu đã thảo luận, đánh giá đúng tình hình và thẳng thắn chỉ ra các nguyên nhân.
Về nguyên nhân khách quan, đại hội nêu rõ ngoài việc đi lên từ sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, chịu ảnh hưởng của chiến tranh và sự chống phá của các thế lực thù địch như tình hình chung của cả nước, thì Lạng Sơn còn phải chịu đựng nặng nề hơn. “Cái nhỏ và nghèo nàn của ta nằm trong cái nhỏ và nghèo nàn của cả nước; hậu quả của chiến tranh tháng 2/1979 làm cho xuất phát điểm của ta phải đi từ con số thấp nhất, nhiều cái đi từ con số không…” – Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X – 1986 nêu rõ.
Ngoài nguyên nhân khách quan, đại hội cũng chỉ rõ những nguyên nhân chủ quan và xác định đây là nguyên nhân chủ yếu. Cụ thể là chưa nhận thấy sâu sắc về tư duy giản đơn, hành động tự do tuỳ tiện theo nếp sống tự nhiên, giản đơn của người miền núi; đánh giá chưa hết hậu quả của chiến tranh về mặt kinh tế, xáo trộn về mặt xã hội. Bởi vậy nên còn “chủ quan giản đơn và nóng vội” trong việc định ra các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, vừa thiếu những biện pháp cụ thể, vừa vượt quá khả năng có thể thực hiện được. Do tư duy giản đơn, không thấy đủ nếp làm ăn cũ kỹ và lối quản lý tập trung quan liêu hành chính bao cấp đang kìm hãm sản xuất kinh doanh nghiêm trọng, nên còn bảo thủ, trì trệ trong đổi mới cơ chế quản lý.
Về cơ cấu thành phần kinh tế, Đảng bộ tỉnh xác định rõ, khuyết điểm là nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ và phần nào duy ý chí, không nhận thức sâu sắc về chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Về cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện các nghị quyết của trung ương, tỉnh bước đầu đã có chuyển biến trong nhận thức về xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa…, nhưng đi vào nhận thức cụ thể từng lĩnh vực, từng việc cụ thể thì chưa nhận thức ra được hết. Về phân phối lưu thông, tư duy còn bị hạn chế và còn tư tưởng ỷ lại Trung ương nên đứng trước những biến động mới chưa nắm chắc khâu then chốt để xử lý.
Cùng đó, trong bàn về củng cố quan hệ sản xuất, thường dừng ở tập hợp người lao động và tư liệu sản xuất, thiếu bàn sâu, bàn kỹ về chế độ quản lý và chế độ phân phối. Về phát triển lực lượng sản xuất, ít bàn kỹ về tổ chức phân công và liên kết trong lao động sản xuất, sử dụng và cải tiến công cụ…Về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa chưa chú ý và chưa nhắm trúng những yêu cầu thiết thực để xây dựng con người mới đủ sức vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Những khuyết điểm trên đã ảnh hưởng lớn đến hình thành cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới, dẫn đến sản xuất chậm phát triển và không ổn định, năng suất chất lượng và hiệu quả thấp.
Những khuyết điểm mà Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá IX đã thẳng thắn chỉ ra và đưa vào Văn kiện trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X là quá trình đúc kết từ thực tiễn với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Có chỉ đúng và phân tích rõ khuyết điểm, hạn chế thì mới đề ra được chủ trương đúng và các giải pháp cụ thể, hiệu quả để khắc phục. Đây là cơ sở rất quan trọng để toàn Đảng bộ và Nhân dân Lạng Sơn cùng cả nước bước vào công cuộc đổi mới.
(Còn nữa)
Ý kiến ()