Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 23/5/2025(2)
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 23/5/2025(2).

Chiến lược tổng thể quốc gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Chính phủ vừa có Nghị quyết 147/NQ-CP ngày 22/5/2025 ban hành Chiến lược tổng thể quốc gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Những năm gần đây, các đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, tác động trên quy mô lớn, uy hiếp sự ổn định, phát triển mọi mặt đời sống của cộng đồng dân cư, quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Các đe dọa này có thể xuất hiện từ tự nhiên, với các biểu hiện của biến đổi khí hậu, như nhiệt độ trái đất tăng nhanh khiến băng tan, nước biển dâng, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ lụt, sóng thần, động đất, hạn hán, giá rét kéo dài... làm mất đa dạng sinh học, phá hủy hệ sinh thái, ảnh hưởng đến các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; dịch bệnh truyền nhiễm xuất hiện thường xuyên hơn, tốc độ lan truyền nhanh, tính chất phức tạp, hậu quả ngày càng nghiêm trọng.
Những đe dọa an ninh phi truyền thống do hoạt động tiêu cực của con người, nổi lên là khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, như tội phạm về ma túy, mua bán người; đặc biệt là tội phạm sử dụng công nghệ cao, không gian mạng, lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để gia tăng các hành vi phạm tội với phương thức, thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, phức tạp.
Xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia có khả năng quản trị hiệu quả các đe dọa an ninh phi truyền thống
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược tổng thể quốc gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Từng bước xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia có khả năng quản trị hiệu quả các đe dọa này, bảo đảm an toàn cho người dân và xã hội; tích cực, chủ động đưa ra ý tưởng, mô hình... để thúc đẩy hợp tác quốc tế và có đóng góp thiết thực, trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong giải quyết các đe dọa an ninh phi truyền thống; góp phần phát triển đất nước bền vững, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tập trung nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo sớm
Chiến lược phấn đấu đến năm 2030, toàn hệ thống chính trị, toàn dân được tuyên truyền, giáo dục, nhận diện về các đe dọa an ninh phi truyền thống; từ đó nhận thức rõ trách nhiệm và quán triệt tốt phương châm "bốn tại chỗ" trong phòng ngừa, ứng phó (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; vật tư, phương tiện tại chỗ; hậu cần tại chỗ).
Năm 2030, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn trong từng ngành, lĩnh vực làm cơ sở xác định cấp độ, mức độ và cơ chế phòng ngừa, ứng phó. Hoàn thành bộ chỉ số an ninh, an sinh, an toàn quốc gia làm cơ sở xác định cảnh báo và tổ chức hoạt động phòng ngừa, ứng phó.
Tập trung nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo sớm. Năm 2030, 100% địa bàn trọng điểm về các đe dọa an ninh phi truyền thống được bố trí hệ thống theo dõi, giám sát và cảnh báo sớm trong các lĩnh vực: địa chất, biến đổi khí hậu, môi trường, nguồn nước, năng lượng, y tế và phòng, chống tội phạm. Hình thành cơ sở dữ liệu liên quan các đe dọa an ninh phi truyền thống trong Trung tâm Dữ liệu quốc gia hướng đến hệ thống dữ liệu liên thông, đầy đủ, đồng bộ cả về chiều dọc (từ trung ương xuống địa phương) và chiều ngang (liên bộ, liên ngành).
Các lực lượng tham gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống được kiện toàn tổ chức, có năng lực phòng ngừa, ứng phó và trang bị phương tiện hiện đại tương đương các nước thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực ở một số lĩnh vực như biến đổi khí hậu; môi trường, an ninh mạng; an ninh y tế; phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, khủng bố.
Hình thành cơ chế điều hành ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống ở các cấp để điều phối các hoạt động ứng phó khi xảy ra các đe dọa ở cấp độ nghiêm trọng. Hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch, kịch bản khung phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống ở các cấp. 100% lực lượng trực tiếp ứng phó được huấn luyện, diễn tập sát thực tế, bảo đảm khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
Bước đầu triển khai một số dự án, công trình lưỡng dụng nhằm giảm nhẹ thiệt hại từ các đe dọa an ninh phi truyền thống do thiên nhiên gây ra và bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an ninh y tế.
Có nguồn lực dự trữ phù hợp, đáp ứng tốt hoạt động khắc phục, tái thiết, và trở lại trạng thái phát triển bình thường của đối tượng chịu tác động từ các đe dọa an ninh phi truyền thống. Hình thành quỹ phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này ở các cấp theo quy định của pháp luật với sự đóng góp của Nhà nước và xã hội. Sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực trong phòng ngừa, ứng phó.
Tích cực, chủ động tham gia hợp tác quốc tế phòng ngừa, ứng phó các đe dọa an ninh phi truyền thống phù hợp với điều kiện, khả năng; nghiên cứu, đề xuất hình thành một diễn đàn quốc tế thường niên do Việt Nam chủ trì, thu hút các học giả, chuyên gia quốc tế, quan chức chính phủ các nước trong khu vực và trên thế giới để thảo luận về hợp tác trong lĩnh vực này.
Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác phòng ngừa, ứng phó
Tầm nhìn đến năm 2045, cả hệ thống chính trị và toàn dân được phổ biến, nhận diện rõ các đe dọa an ninh phi truyền thống, có năng lực và thái độ chủ động phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này.
Trước năm 2045, có hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, phù hợp với luật pháp quốc tế; các chính sách về phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống được xây dựng đầy đủ, khả thi, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, với cơ chế thực thi nghiêm minh, nhất quán, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác phòng ngừa, ứng phó.
Năng lực dự báo, cảnh báo sớm các đe dọa an ninh phi truyền thống tương đương các nước phát triển, trên cơ sở đội ngũ chuyên gia và hạ tầng kỹ thuật hiện đại, hệ thống dữ liệu liên thông, đầy đủ, đồng bộ, cập nhật đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, ứng phó trong mọi tình huống.
Lực lượng tại chỗ ở cơ sở có khả năng ứng phó hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống; hình thành lực lượng cơ động sẵn sàng tham gia hợp tác quốc tế trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này.
Các phương án, kế hoạch, kịch bản khung ứng phó và xử lý các tình huống đe dọa an ninh phi truyền thống trên các lĩnh vực được vận hành trơn tru, đồng bộ, nhịp nhàng và hiệu quả. Trong đó, chú trọng ứng dụng, khai thác triệt để thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến trong ứng phó.
Có đủ hệ thống cơ sở hạ tầng lưỡng dụng và khả năng thích ứng linh hoạt nhằm hạn chế tác động của thảm họa, sự cố an ninh phi truyền thống. Có nguồn dự trữ đầy đủ đáp ứng mọi yêu cầu của hoạt động khắc phục, tái thiết và phát triển bình thường trở lại sau thảm họa, sự cố xảy ra trong nước và sẵn sàng phục vụ các hoạt động hợp tác quốc tế ứng phó, khắc phục các thảm họa, sự cố.
Tích cực trong hợp tác quốc tế, chủ động tham gia xây dựng các khuôn khổ, cơ chế hợp tác quốc tế phòng ngừa, ứng phó các đe dọa an ninh phi truyền thống; thể hiện rõ vai trò là thành viên trách nhiệm, có đóng góp tích cực, hiệu quả với cộng đồng quốc tế trong phòng ngừa, ứng phó các đe dọa này.
8 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
Để đạt được các mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra 8 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cần thực hiện gồm:
1- Hình thành cơ chế điều hành, quản lý công tác phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống;
2- Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống;
3- Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, hiệu quả quản lý nhà nước, quản trị quốc gia, kiểm soát rủi ro để chủ động phòng ngừa, ứng phó, thích ứng với các đe dọa an ninh phi truyền thống;
4- Đẩy mạnh phát triển bền vững, tạo thế và lực vững chắc, huy động sức mạnh tổng hợp, toàn diện, toàn dân, xã hội hóa, tận dụng mọi nguồn lực cho phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống;
5- Tăng cường công tác thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức, kỹ năng; chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức tập huấn, diễn tập các kịch bản phòng ngừa, giảm nhẹ, cứu trợ, phục hồi, tái thiết và phát triển trong trường hợp, tình huống cụ thể;
6- Chú trọng nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ tham gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống;
7- Đẩy mạnh chuyển đổi số kết hợp với nghiên cứu phát triển, nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống;
8- Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống.

Quy định một số chính sách đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt và chế độ, chính sách đối với người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt
Chính phủ ban hành Nghị định số 103/2025/NĐ-CP ngày 15/5/2025 của Chính phủ quy định một số chính sách đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt và chế độ, chính sách đối với người lao động trong cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt.
Trong đó, Nghị định quy định rõ chính sách đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng, anh ninh nòng cốt là doanh nghiệp và không phải doanh nghiệp.
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CƠ SỞ CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH NÒNG CỐT LÀ DOANH NGHIỆP
Cơ sở công nghiệp quốc phòng, anh ninh nòng cốt là doanh nghiệp được hưởng chính sách về đầu tư xây dựng; mua sắm vật tư và chuẩn bị các yếu tố bảo đảm, tổ chức nghiên cứu, sản xuất theo nhiệm vụ được giao; chuẩn bị yếu tố bảo đảm về tài chính và hỗ trợ khác; thuê và chi trả cho chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư; hỗ trợ mức đóng chênh lệch bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Chính sách về đầu tư xây dựng
Điều kiện áp dụng chính sách ưu tiên:
Các dự án đầu tư xây dựng đáp ứng một trong các điều kiện sau:
- Dự án đầu tư xây dựng theo yêu cầu nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, an ninh được giao phù hợp với quy hoạch công nghiệp quốc phòng, quy hoạch công nghiệp an ninh, quy hoạch của địa phương, chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm và kế hoạch sản xuất kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Dự án đầu tư xây dựng phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh tại địa bàn được xác định có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật.
Nội dung ưu tiên đầu tư xây dựng:
a) Hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công trình hạ tầng xã hội của cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt gồm: Công trình cấp thoát nước, giao thông nội bộ, hào và tuy-nen kỹ thuật, hệ thống quản lý, giám sát, điều hành, thông tin liên lạc, hệ thống điện, hạ tầng công nghệ, công trình đo lường - thử nghiệm, trường thử công nghệ, thu gom và xử lý nước thải, chất thải; nhà trẻ, bệnh xá, nhà văn hóa, thể thao, nhà tập thể, nhà ở công vụ, cơ sở an điều dưỡng, phục hồi sức khỏe, điều trị bệnh nghề nghiệp.
b) Hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công trình hạ tầng xã hội kết nối với cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt, gồm: Công trình hạ tầng kỹ thuật, năng lượng, xử lý môi trường và các công trình khác đảm bảo kết nối đồng bộ với các công trình của cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt.
c) Mở rộng năng lực sản xuất: Đền bù, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư, xây dựng các công trình bảo vệ khu đất, xây dựng, nâng cấp, sửa chữa nhà xưởng, trụ sở làm việc; mua sắm, nâng cấp, sửa chữa, cải tiến máy móc, trang thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm quốc phòng, an ninh; trang thiết bị phục vụ đo kiểm, thử nghiệm sản phẩm quốc phòng, an ninh; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh.
Chính sách ưu tiên:
- Ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu tư công trung hạn và hằng năm cho các dự án đầu tư xây dựng quy định ở trên.
- Được sử dụng nguồn quỹ và nguồn vốn hợp pháp của doanh nghiệp để đầu tư xây dựng các dự án quy định tại điểm a và điểm c ở trên khi có yêu cầu cấp bách phục vụ nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, an ninh theo quy định quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
- Ưu tiên bố trí nguồn vốn hợp pháp từ ngân sách nhà nước để thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư, đền bù, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư, xây dựng các công trình bảo vệ khu đất. Được sử dụng nguồn quỹ và nguồn vốn hợp pháp của doanh nghiệp để thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư.
- Được giao cơ quan chuyên môn về xây dựng trực thuộc để thực hiện thẩm định thiết kế xây dựng và các nội dung triển khai sau thiết kế cơ sở của dự án đầu tư xây dựng phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh sau khi có ý kiến của cấp có thẩm quyền.
- Được ngân sách trung ương, ngân sách địa phương đảm bảo nguồn vốn để thực hiện dự án đầu tư xây dựng tại điểm b (bao gồm cả nội dung đền bù, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư).
Mua sắm vật tư và chuẩn bị các yếu tố bảo đảm, tổ chức nghiên cứu, sản xuất theo nhiệm vụ được giao
Cơ sở công nghiệp quốc phòng, anh ninh nòng cốt là doanh nghiệp được chủ động mua sắm vật tư và chuẩn bị các yếu tố bảo đảm, tổ chức nghiên cứu, sản xuất bảo đảm tiến độ, chất lượng sản phẩm theo nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và các chính sách sau:
Mua sắm vật tư phục vụ nghiên cứu, sản xuất
- Tổ chức mua sắm vật tư, dịch vụ phục vụ nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, an ninh theo quy chế mua sắm của doanh nghiệp, bảo đảm minh bạch, kịp thời, hiệu quả và theo quy định của pháp luật; trong đó ưu tiên sử dụng các vật tư đã có trong dự trữ và đặt hàng mua sắm các loại vật tư mà công nghiệp quốc phòng, an ninh sản xuất được, đáp ứng yêu cầu tính năng, kỹ thuật của sản phẩm;
- Đối với mua sắm sản phẩm mẫu, vật tư, bán thành phẩm đặc chủng phục vụ cho sản xuất quốc phòng, an ninh được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 23 của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp hoặc áp dụng phương thức, hình thức mua sắm theo quy định của pháp luật về hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh.
Chuẩn bị các yếu tố bảo đảm cho nghiên cứu, sản xuất
- Được mua tài liệu thiết kế, tài liệu kỹ thuật, bí quyết công nghệ, sản phẩm mẫu để tổ chức nghiên cứu, sản xuất theo quy định của pháp luật về hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo;
- Được chủ động xây dựng, báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt và áp dụng tài liệu kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, định mức kinh tế-kỹ thuật theo nhiệm vụ được giao, phù hợp với quy định của pháp luật.
Khi thực hiện nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, an ninh có yêu cầu cấp bách, được chủ động nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, nghiệm thu sản phẩm quốc phòng, an ninh cho đến khi nghiệm thu đạt yêu cầu về chất lượng; chủ động hoàn thiện hồ sơ pháp lý làm cơ sở thanh toán, quyết toán theo quy định;
- Được huy động và sử dụng các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư, nâng cấp, sửa chữa, chế tạo hoặc thuê máy, thiết bị và trang bị công nghệ phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh theo nhiệm vụ được giao.
Chuẩn bị yếu tố bảo đảm về tài chính và hỗ trợ khác
Cơ sở công nghiệp quốc phòng, anh ninh nòng cốt là doanh nghiệp được hưởng chính sách theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 61 của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp và các chính sách sau đây:
- Được tạm ứng 70% giá trị hợp đồng sản xuất quốc phòng, an ninh; trường hợp sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt được tạm ứng 80% giá trị hợp đồng. Thu hồi tạm ứng thực hiện theo tiến độ hợp đồng sản xuất quốc phòng, an ninh và thu hồi hết tạm ứng khi bàn giao sản phẩm theo hợp đồng.
- Phí bảo lãnh, phí nghiệp vụ thư tín dụng và các phí khác liên quan đến thư tín dụng khi thực hiện hợp đồng sản xuất sản phẩm quốc phòng, an ninh được tính là một yếu tố chi phí tổng hợp vào giá thành sản phẩm và được hạch toán vào chi phí hợp lý, hợp lệ.
- Chi phí lãi vay tương ứng với nguồn ngân sách nhà nước chưa kịp thời đảm bảo theo tiến độ hợp đồng sản xuất quốc phòng, an ninh mà doanh nghiệp phải vay của các tổ chức tín dụng được xác định là chi phí hợp lý, hợp lệ và được tính vào giá thành sản phẩm. Trường hợp không tính chi phí lãi vay vào giá thành sản phẩm thì được ngân sách nhà nước cấp bù.
- Được áp dụng các chính sách như đối với doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Thuê và chi trả cho chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư
Người đại diện theo pháp luật của cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt được thuê chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư theo các hình thức sau: Hợp đồng lao động; Thuê khoán hoặc hợp tác tư vấn.
Người đại diện theo pháp luật của cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt được thuê và quyết định mức chi trả lương, thưởng, lợi ích, giá trị hợp đồng trên cơ sở yêu cầu công việc, năng lực, đóng góp của chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư phù hợp với mặt bằng tiền lương theo ngành, nghề, lĩnh vực công việc tương ứng trên thị trường và được xác định là chi phí hợp lý, hợp lệ theo cách thức sau:
- Chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư được thuê theo hình thức Hợp đồng lao động thì lương, thưởng, lợi ích được hạch toán vào chi phí và được tính vào giá thành sản phẩm. Các khoản chi phí này được bổ sung vào quỹ tiền lương của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý lao động, tiền lương;
- Chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư được thuê theo hình thức Thuê khoán hoặc hợp tác tư vấn thì giá trị hợp đồng được xác định là chi phí hợp lý, hợp lệ và được tính vào giá thành sản phẩm;
- Trường hợp sử dụng ngân sách nhà nước thì mức lương không vượt quá mức lương quy định tại Điều 19 Nghị định này.
Hỗ trợ mức đóng chênh lệch bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Nghị định quy định trường hợp kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp không bảo đảm đủ mức lương và các khoản phụ cấp làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế thì được Nhà nước hỗ trợ ngân sách để đóng mức chênh lệch bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động như sau:
Đối tượng người lao động được hỗ trợ bao gồm: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng tại cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt; người làm công tác cơ yếu làm việc tại cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt sản xuất sản phẩm, trang thiết bị phục vụ hoạt động cơ yếu; sĩ quan, hạ sĩ quan hưởng lương, công nhân công an tại cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt.
Mức hỗ trợ: Hỗ trợ bằng phần chênh lệch giữa tiền lương và các khoản phụ cấp theo quy định của pháp luật cho các đối tượng trên so với mức tiền lương và các khoản phụ cấp mà thực tế doanh nghiệp trả thấp hơn, nhân với tỷ lệ phải nộp của người sử dụng lao động.
Thời gian hỗ trợ theo thực tế phát sinh hằng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Nghị định quy định rõ việc hỗ trợ khi xảy ra một trong các trường hợp sau:
- Nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, an ninh được cấp có thẩm quyền giao thấp hơn 50% so với công suất thiết kế của dây chuyền sản xuất quốc phòng, an ninh làm cho doanh nghiệp không đảm bảo chi trả đủ mức lương theo chức vụ, chức danh, cấp hàm, ngạch, bậc và các khoản phụ cấp;
- Các biến động về giá cả, tiền lương và các yếu tố chi phí khác không được điều chỉnh tác động đến hoạt động sản xuất quốc phòng, an ninh làm cho doanh nghiệp không đảm bảo chi trả đủ mức lương theo chức vụ, chức danh, cấp hàm, ngạch, bậc và các khoản phụ cấp;
- Hoàn thành sản xuất sản phẩm quốc phòng, an ninh bằng hoặc cao hơn kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt nhưng cuối năm quyết toán tài chính khi cấp có thẩm quyền xác định quỹ lương thực hiện thấp hơn quỹ lương theo chức vụ, chức danh, cấp hàm, ngạch, bậc và các khoản phụ cấp;
- Trong trường hợp bất khả kháng ảnh hưởng đến khả năng sản xuất quốc phòng, an ninh của doanh nghiệp làm cho doanh nghiệp không đảm bảo chi trả đủ mức lương theo chức vụ, chức danh, cấp hàm, ngạch, bậc và các khoản phụ cấp.
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CƠ SỞ CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH NÒNG CỐT KHÔNG PHẢI DOANH NGHIỆP
Cơ sở công nghiệp quốc phòng, anh ninh nòng cốt không phải doanh nghiệp được hưởng chính sách trong đầu tư xây dựng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công trình hạ tầng xã hội; ưu tiên bố trí ngân sách để xây dựng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, chế tạo trong lĩnh vực vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, phát triển công nghệ nền, công nghệ lõi.
Đầu tư xây dựng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công trình hạ tầng xã hội
Nghị định quy định cơ sở công nghiệp quốc phòng, anh ninh nòng cốt không phải doanh nghiệp được hưởng các chính sách về đầu tư xây dựng khi đáp ứng một trong các điều kiện sau:
- Dự án đầu tư xây dựng theo yêu cầu nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, an ninh được giao phù hợp với quy hoạch công nghiệp quốc phòng, quy hoạch công nghiệp an ninh, quy hoạch của địa phương, kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm của cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt không phải là doanh nghiệp;
- Dự án đầu tư xây dựng phục vụ sản xuất quốc phòng, an ninh tại địa bàn được xác định có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật.
Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công trình hạ tầng xã hội quy định ở trên và các nội dung gồm: Đền bù, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư, xây dựng các công trình bảo vệ khu đất; phòng thí nghiệm; xưởng thực nghiệm; trạm sửa chữa, bảo dưỡng và các công trình phục vụ nghiên cứu, đào tạo, thử nghiệm, chế tạo, cất trữ vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ và được hưởng chính sách quy định tại các điểm a, c, d và đ khoản 3 Điều 4 Nghị định này.
Ưu tiên bố trí ngân sách để xây dựng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, chế tạo trong lĩnh vực vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, phát triển công nghệ nền, công nghệ lõi
Nhà nước đảm bảo đủ vốn để đầu tư xây dựng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, thử nghiệm, chế tạo vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, phát triển công nghệ nền, công nghệ lõi.
Các chính sách trên có hiệu lực từ ngày 1/7/2025.

Quy định Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 110/2025/NĐ-CP ngày 21/5/2025 quy định Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình.
Theo Nghị định 110/2025/NĐ-CP, Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình là tập hợp thông tin về nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định tại Điều 46 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Nội dung thông tin quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình gồm:
1. Thông tin về ban hành, trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, kế hoạch về phòng, chống bạo lực gia đình;
2. Thông tin về thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình;
3. Thông tin về hành vi vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình;
4. Thông tin về vụ việc bạo lực gia đình và hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp trong phòng, chống bạo lực gia đình;
5. Thông tin chung về người bị bạo lực gia đình, người có hành vi bạo lực gia đình là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam;
6. Thông tin chung về người bị bạo lực gia đình, người có hành vi bạo lực gia đình là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam;
7. Thông tin chung về người làm công tác phòng, chống bạo lực gia đình, cộng tác viên dân số tham gia công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng;
8. Thông tin chung về cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định tại khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 5 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình;
9. Thông tin về các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình, giáo dục người có hành vi bạo lực gia đình;
10. Thông tin về cơ sở trợ giúp phòng, chống bạo lực gia đình, mô hình phòng, chống bạo lực gia đình;
11. Thông tin về đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác phòng, chống bạo lực gia đình;
12. Thông tin về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình;
13. Thông tin khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong phòng, chống bạo lực gia đình;
14. Thông tin về thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình;
15. Thông tin về xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình;
16. Thông tin, dữ liệu được hình thành từ quá trình triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định tại Điều 46 của Luật Phòng, chống chống bạo lực gia đình.
Nghị định nêu rõ: Thông tin, dữ liệu nêu trên được cập nhật thường xuyên, liên tục vào Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức vận hành phần mềm quản lý Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình phục vụ cho hoạt động thu thập, tạo lập, cập nhật, kết nối, chia sẻ, quản lý, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật.
Cung cấp thông tin, dữ liệu phục vụ bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình; ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình
Nghị định nêu rõ, thông tin về nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình được thu thập, tạo lập, cập nhật, kết nối, chia sẻ trong quá trình triển khai hoạt động quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình ở trung ương và địa phương.
Việc thu thập, tạo lập, cập nhật, kết nối, chia sẻ, quản lý, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình được thực hiện thống nhất trên toàn quốc thông qua phần mềm quản lý Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm:
Phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước, xây dựng chính sách về phòng, chống bạo lực gia đình; cung cấp thông tin, dữ liệu phục vụ việc bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình; ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình; xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Rút ngắn thời gian và giảm nguồn lực thực hiện quy trình thu thập, báo cáo thông tin, dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình, kịp thời cung cấp thông tin, bằng chứng phục vụ nhu cầu quản lý, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả chính sách, nâng cao độ tin cậy của thông tin, dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong việc thu thập, tạo lập, cập nhật, kết nối, chia sẻ, quản lý, khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình, cung cấp dịch vụ công trực tuyến về phòng, chống bạo lực gia đình, phục vụ nhu cầu tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
Thông tin trong Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp có giá trị pháp lý được xác định như sau:
Thông tin trong Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình được cơ quan có thẩm quyền cung cấp dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
Thông tin trong Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình được kết nối, chia sẻ với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, Trung tâm dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin khác của cơ quan nhà nước thông qua Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu, Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia, Trục liên thông văn bản quốc gia, Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ, cấp tỉnh, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, được thể hiện dưới các hình thức thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
Thông tin trong Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình, xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình; được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp qua Cổng thông tin về phòng, chống bạo lực gia đình ở trung ương, địa phương có giá trị nghiên cứu, học tập, tham khảo.
Nghiêm cấm truy cập trái phép vào hệ thống Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình, tiết lộ thông tin đời sống riêng tư, bí mật cá nhân
Nghị định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi truy cập trái phép vào hệ thống Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình; làm sai lệch thông tin; thay đổi, xóa, hủy dữ liệu trái phép; tiết lộ thông tin đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trái quy định của pháp luật; sao chép thông tin trái phép, cung cấp thông tin sai lệch; cản trở quá trình vận hành ổn định, liên tục, thông suốt của Cơ sở dữ liệu về phòng, chống bạo lực gia đình.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi nêu trên tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính, kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Nghi định có hiệu lực thi hành từ 10/7/2025.

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
Chính phủ ban hành Nghị định số 111/2025/NĐ-CP ngày 22/5/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
Thay đổi thẩm quyền ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước
Trong đó, Nghị định số 111/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 4 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP về thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành danh mục chi tiết dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.
Theo quy định mới, căn cứ quy định của pháp luật chuyên ngành và quy định tại Nghị định này, các bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện như sau:
a) Các bộ, cơ quan trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo các nhóm dịch vụ thuộc các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý. Các bộ, cơ quan trung ương ban hành danh mục dịch vụ chi tiết làm cơ sở đấu thầu, đặt hàng và giao nhiệm vụ (nếu cần thiết).
b) Ngoài các danh mục dịch vụ sự nghiệp công ban hành theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định này; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo phân cấp thuộc phạm vi quản lý của địa phương và phù hợp với khả năng ngân sách của địa phương trong phạm vi dự toán được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua, gửi Bộ Tài chính và các bộ quản lý ngành, lĩnh vực để giám sát trong quá trình thực hiện.
c) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ danh mục dịch vụ sự nghiệp công của ngành, lĩnh vực đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc danh mục chi tiết của các bộ quản lý ngành ban hành quyết định hoặc phân cấp cho cơ quan trực thuộc lựa chọn đơn vị sự nghiệp công để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo hình thức giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu.
Sửa đổi quy định về giá, phí dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước
Đồng thời, Nghị định số 111/2025/NĐ-CP cũng sửa đổi khoản 1, 2 Điều 5 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định về giá, phí dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.
Theo quy định mới, giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước được xác định theo quy định của pháp luật về giá, định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí (nếu có) và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước quy định tại khoản 3 Điều này, trong đó:
- Chi phí tiền lương trong giá dịch vụ sự nghiệp công tính theo mức lương cơ sở, hệ số tiền lương ngạch, bậc, chức vụ, các khoản đóng góp theo tiền lương và các khoản phụ cấp lương theo chế độ quy định đối với đơn vị sự nghiệp công hoặc tính theo mức lương theo vị trí việc làm, chức danh, chức vụ và các khoản đóng góp theo tiền lương theo quy định của Nhà nước; định mức lao động do các bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân câp tỉnh ban hành theo thẩm quyền;
- Trích khấu hao tài sản cố định theo quy định pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và lộ trình kết cấu chi phí khấu hao vào giá dịch vụ sự nghiệp công do cấp có thẩm quyền quy định.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí (nếu có), giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước được xác định theo quy định của pháp luật về giá.
Giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước được quyết định theo cơ chế thị trường
Nghị định số 111/2025/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung một số quy định về dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước.
Theo quy định tại Nghị định số 111/2025/NĐ-CP, đơn vị sự nghiệp công được tự chủ sử dụng tài sản và các nguồn lực ở đơn vị để cung cấp dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, phù hợp với lĩnh vực chuyên môn được cấp có thẩm quyền giao theo nguyên tắc:
- Thực hiện theo đúng quy định của pháp luật;
- Được quyết định giá dịch vụ theo cơ chế thị trường, bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy hợp lý. Trường hợp dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá thì thực hiện theo mức giá cụ thể do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; trường hợp cơ quan nhà nước quy định giá tối đa, thì đơn vị được quyết định mức giá cụ thể không cao hơn mức giá tối đa; trường hợp cơ quan nhà nước quy định mức giá tối thiểu, thì đơn vị được quyết định mức giá cụ thể không thấp hơn mức giá tối thiểu; trường hợp cơ quan nhà nước quy định khung giá thì đơn vị được quyết định mức giá cụ thể trong phạm vi khung giá do nhà nước quy định. Việc quyết định mức giá cụ thể phải phù hợp với căn cứ, nguyên tắc, phương pháp định giá hàng hóa, dịch vụ theo quy định pháp luật về giá.
Nghị định số 111/2025/NĐ-CP bổ sung quy định: Trường hợp phát sinh chi phí chung đối với các đơn vị sự nghiệp công lập có nhiều hoạt động (cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước và dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước) không thể tách riêng chi phí: Đơn vị thực hiện phân bổ chi phí theo từng hoạt động theo tiêu thức phù hợp như doanh thu, chi phí, số lượng, khối lượng, thời gian và các tiêu thức khác phù hợp với ngành, lĩnh vực và quy định của pháp luật liên quan. Đối với việc phân bổ chi phí khấu hao tài sản cố định thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định.
Trích lập Quỹ bổ sung thu nhập, Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi
Nghị định số 111/2025/NĐ-CP cũng sửa đổi quy định về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (đơn vị nhóm 3).
Về trích lập Quỹ bổ sung thu nhập và chi thu nhập tăng thêm của đơn vị nhóm 3, theo quy định mới tại Nghị định số 111/2025/NĐ-CP: Trong thời gian Chính phủ chưa ban hành chế độ tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, trích lập Quỹ bổ sung thu nhập tối đa không quá 2 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương do Nhà nước quy định và tiền lương theo hợp đồng lao động (nếu có).
Về trích lập Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi, Nghị định số 111/2025/NĐ-CP quy định mức trích tổng hai quỹ như sau:
Đơn vị tự bảo đảm từ 70% đến dưới 100% chi thường xuyên: Trích lập tối đa không quá 2,5 tháng tiền lương và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm của đơn vị;
Đơn vị tự bảo đảm từ 30% đến dưới 70% chi thường xuyên: Trích lập tối đa không quá 2 tháng tiền lương và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm của đơn vị;
Đơn vị tự bảo đảm từ 10% đến dưới 30% chi thường xuyên: Trích lập tối đa không quá 1,5 tháng tiền lương và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm của đơn vị.
Ngoài ra, Nghị định số 111/2025/NĐ-CP cũng sửa đổi quy định về chi thường xuyên giao tự chủ; phân phối kết quả tài chính trong năm; huy động vốn và vay vốn tín dụng; tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên kết... của đơn vị sự nghiệp công lập.

Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo Triển lãm thành tựu kinh tế - xã hội nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh
Phó Thủ tướng Mai Văn Chính - Trưởng Ban Chỉ đạo "Triển lãm thành tựu kinh tế - xã hội nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh (02/9/1945 - 02/9/2025)" vừa ký Quyết định số 65/QĐ-BCĐ ngày 22/5/2025 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo này.
Quy chế này quy định về nguyên tắc, chế độ làm việc, chế độ thông tin báo cáo và cơ chế phối hợp, trách nhiệm của các thành viên, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo "Triển lãm thành tựu kinh tế - xã hội nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh (02/9/1945 - 02/9/2025)" (Ban Chỉ đạo).
Ban Chỉ đạo làm việc theo nguyên tắc tập trung, dân chủ
Ban Chỉ đạo làm việc theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, thảo luận công khai, bảo đảm sự thống nhất, đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu.
Ban Chỉ đạo chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo trong việc quản lý, điều hành, và tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Trưởng Ban Chỉ đạo là người quyết định cuối cùng đối với các vấn đề của Ban Chỉ đạo; Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quyết định một số nội dung theo phân công, ủy quyền của Trưởng Ban Chỉ đạo; các Ủy viên Ban Chỉ đạo chịu trách nhiệm triển khai công việc được phân công và chủ động chỉ đạo triển khai nhiệm vụ thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước được giao.
Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì các cuộc họp định kỳ và đột xuất khi cần thiết. Trưởng Ban Chỉ đạo có thể phân công, ủy quyền cho Phó Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì các cuộc họp để thảo luận, quyết định một số vấn đề cụ thể thuộc nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo. Các thành viên Ban Chỉ đạo có trách nhiệm tham dự đầy đủ các cuộc họp, trường hợp không thể tham dự họp, phải báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo và ủy quyền cho người đại diện cơ quan, đơn vị dự họp; ý kiến của người dự họp là ý kiến chính thức của thành viên Ban Chỉ đạo.
Ban Chỉ đạo làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, đề cao trách nhiệm cá nhân
Ban Chỉ đạo làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, đề cao trách nhiệm cá nhân; giải quyết công việc đúng phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo đảm đúng thời hạn, hiệu quả và đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Ban Chỉ đạo có trách nhiệm xây dựng chương trình, kế hoạch công tác tháng của Ban Chỉ đạo và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên để tổ chức thực hiện.
Ban Chỉ đạo làm việc theo chương trình hằng tháng, họp bất thường, đột xuất khi cần. Các phiên họp do Trưởng Ban Chỉ đạo hoặc Phó Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì (khi được Trưởng Ban Chỉ đạo phân công, ủy quyền). Thành phần tham dự họp đột xuất do Trưởng Ban Chỉ đạo hoặc Phó Trưởng Ban Chỉ đạo (khi được Trưởng Ban Chỉ đạo phân công, ủy quyền) quyết định. Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo họp định kỳ 02 tuần một lần.
Trưởng Ban Chỉ đạo quyết định triệu tập cuộc họp mở rộng có sự tham gia của người đứng đầu các bộ, cơ quan liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.
Cơ chế phối hợp
Trưởng Ban Chỉ đạo và các Phó Trưởng Ban Chỉ đạo định kỳ hoặc đột xuất làm việc với các Ủy viên Ban Chỉ đạo, Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo để nghe báo cáo tình hình và chỉ đạo thực hiện các hoạt động của Ban Chỉ đạo.
Các Ủy viên Ban Chỉ đạo có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc lĩnh vực mình phụ trách phối hợp với Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ liên quan; báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo về việc thực hiện các nhiệm vụ được phân công.
Đối với những vấn đề cần giải quyết ngay nhưng Ban Chỉ đạo chưa tổ chức họp được thì Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo lấy ý kiến bằng văn bản của các Ủy viên Ban Chỉ đạo và báo cáo, xin ý kiến quyết định của Trưởng Ban Chỉ đạo.
Trách nhiệm của Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo
Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ giúp Ban Chỉ đạo, Trưởng Ban Chỉ đạo điều phối, xử lý, giải quyết các vấn đề phát sinh, vướng mắc trong quá trình chỉ đạo triển khai Triển lãm; triển khai các công việc thường xuyên của Ban Chỉ đạo; chủ trì, phối hợp với các bộ, ban, ngành, cơ quan liên quan, địa phương để tổng hợp, đề xuất kế hoạch hoạt động của Ban Chỉ đạo, giải pháp triển khai hiệu quả công tác tổ chức Triển lãm.
Đồng thời, tham mưu việc thành lập Ban Tổ chức; các Tiểu ban giúp việc Ban Tổ chức; chuẩn bị các nội dung họp Ban Chỉ đạo; phối hợp với các cơ quan liên quan dự thảo kết luận cuộc họp Ban Chỉ đạo; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Quy chế này. Trường hợp cần bổ sung, sửa đổi Quy chế, trên cơ sở đề xuất của các thành viên Ban Chỉ đạo, báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo xem xét, quyết định.
Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo chịu trách nhiệm bảo đảm các điều kiện hoạt động của Ban Chỉ đạo, sử dụng bộ máy của mình để tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo hoặc báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo thành lập tổ giúp việc làm việc theo chế độ kiêm nhiệm (có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học về ngành, lĩnh vực) thuộc cơ quan thường trực để giúp Ban Chỉ đạo thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, bảo đảm không tăng biên chế; trừ trường hợp đặc biệt thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và thực hiện các nhiệm vụ khác do Ban Chỉ đạo, Trưởng Ban Chỉ đạo giao.

Kết luận của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp về Dự thảo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ cấp bách tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật, quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường
Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo 255/TB-VPCP ngày 23/5/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp về Dự thảo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ cấp bách tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật, quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường.
Thông báo nêu: Công tác bảo vệ môi trường được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Cùng với kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường là trụ cột quan trọng, không thể tách rời, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Hệ thống chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường được ban hành đồng bộ, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho công tác bảo vệ môi trường. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các văn bản chỉ đạo điều hành để chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường có lúc, có nơi còn diễn ra rất nghiêm trọng, nhất là ô nhiễm môi trường không khí tại các đô thị lớn; ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước tại các địa bàn tập trung đông dân cư, làng nghề, cơ sở sản xuất công nghiệp, kinh doanh, dịch vụ… Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do việc tổ chức thực hiện còn thiếu đồng bộ, thiếu quyết liệt, thiếu hiệu quả, chưa xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, việc phân công nhiệm vụ còn chồng chéo, bất cập, chưa đảm bảo nguyên tắc "6 rõ" - rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền.
Tạo bước chuyển biến căn bản trong công tác bảo vệ môi trường
Để Chỉ thị sau khi được ban hành tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm và hành động của chính quyền các cấp, người dân và doanh nghiệp; tạo bước chuyển biến căn bản trong công tác bảo vệ môi trường, giải quyết dứt điểm các điểm nóng về ô nhiễm môi trường, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Công an chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các địa phương tiếp tục rà soát hoàn thiện dự thảo Chỉ thị trong đó lưu ý một số nội dung sau:
- Về tên Chỉ thị: cần ngắn gọn, rõ ràng theo hướng "Chỉ thị về một số nhiệm vụ cấp bách để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng".
- Nội dung đánh giá tình hình và nguyên nhân cần ngắn gọn, súc tích, khái quát tình hình mức độ, ô nhiễm môi trường trên cả nước, các vấn đề môi trường bức xúc như ô nhiễm không khí, nguồn nước ở các thành phố lớn, đô thị, ô nhiễm môi trường lưu vực sông, làng nghề.
- Về nhiệm vụ, giải pháp: Cần rà soát, tổng hợp vào dự thảo Chỉ thị các nhiệm vụ giải pháp đã được xác định trong các nghị quyết, kết luận của Đảng, nghị quyết của Chính phủ, các chỉ thị, kết luận, chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ đang thực hiện nhưng cần tiếp tục tăng cường triển khai, đảm bảo nội dung dự thảo Chỉ thị có tính kế thừa, đồng bộ, hệ thống, hiệu quả trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện.
Cần xác định những nhiệm giải pháp cấp bách, lộ trình thời gian hoàn thành để giải quyết tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, các điểm nóng về ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn, đô thị, lưu vực sông, làng nghề.
Đối với các nhiệm vụ có cơ sở pháp lý (đã được quy định tại luật, nghị định) thì quy định theo đúng nguyên tắc "6 rõ"; những nhiệm vụ có tính mới và chưa được pháp luật quy định, có tác động sâu, rộng đến đời sống người dân, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thì cần quy định theo hướng giao cơ quan có chức năng nghiên cứu, đề xuất, có tổng hợp, đánh giá các ý kiến của các cơ quan liên quan.
- Về phân công trách nhiệm cho các Bộ, ngành, cơ quan cần rà soát đảm bảo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và quy định của pháp luật, theo nguyên tắc một nhiệm vụ chỉ do một cơ quan chủ trì phụ trách, tránh trường hợp làm thay, trùng dẫm, lãng phí nguồn lực; quy định rõ trách nhiệm phối hợp trong hoạt động triển khai thực hiện.
- Về trách nhiệm của địa phương hoàn thiện theo hướng: cần quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, của người đứng đầu trong xây dựng các kế hoạch, xác định các mục tiêu, chỉ tiêu về môi trường 5 năm và hàng năm; trách nhiệm trong triển khai thực hiện, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường; trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, xử lý, đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường; thiết lập hệ thống dữ liệu quan trắc, giám sát kết nối về Trung ương.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội: Chỉ thị cần giao mục tiêu, nhiệm vụ, kết quả, thời gian hoàn thành và quy định trách nhiệm toàn diện của Ủy ban nhân dân 02 Thành phố trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách về bảo vệ môi trường.
Phó Thủ tướng thống nhất với đề xuất trong dự thảo Chỉ thị giao Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội lập, phê duyệt, triển khai các đề án theo thẩm quyền đồng thời, quy định trách nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình triển khai. Quá trình xây dựng, thực hiện đề án, Ủy ban nhân dân 02 Thành phố nghiên cứu có các biện pháp, chế tài đủ mạnh, phù hợp để các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường không tiếp tục diễn ra, đồng thời có các giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện (hoàn thiện hệ thống giao thông công cộng, các chính sách hỗ trợ, …) với lộ trình, thời điểm phù hợp để đảm bảo đáp ứng được hai mục tiêu giảm ô nhiễm và đảm bảo các hoạt động dân sinh, kinh tế diễn ra bình thường; đồng thời có định hướng truyền thông để tạo sự đồng thuận của xã hội. Trong trường hợp nội dung đề án có liên quan đến quyền công dân, ảnh hưởng mạnh đến cuộc sống của người dân, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thì nên ưu tiên sử dụng các hình thức kiểm soát thông qua các công cụ kinh tế, tài chính, cố gắng tránh việc cấm, dừng đột ngột vì vấn đề bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường cần sự đồng lòng, ủng hộ, chung tay của người dân, doanh nghiệp và cần thời gian để thay đổi về nhận thức.
Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục hoàn thiện văn bản theo kết luận này, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp nghe báo cáo về tình hình thị trường bất động sản
Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 256/TB-VPCP ngày 23/5/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp nghe báo cáo về tình hình thị trường bất động sản.
Thông báo nêu: Thị trường bất động sản có vai trò quan trọng trong "hệ sinh thái" kinh tế, tác động đến chuỗi sản xuất, thị trường vốn, tín dụng, lao động,... vì vậy, thời gian qua Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo hoàn thiện, tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, quy hoạch; giải quyết các khó khăn, vướng mắc thúc đẩy phát triển lành mạnh, bền vững.
Mặc dù, các chỉ số, báo cáo đánh giá cho thấy sự phục hồi, tăng trưởng nhưng thị trường bất động sản vẫn bộc lộ những tồn tại, hạn chế, trong đó: nguồn cung bất động sản còn thiếu hụt, cơ cấu sản phẩm theo nhu cầu của thị trường thiếu các sản phẩm ở phân khúc trung bình và nhà ở xã hội; giá bất động sản nhà ở tại các đô thị quá cao so với thu nhập của người dân; tiếp cận nhà ở nhất là nhà ở phân khúc trung bình, nhà ở xã hội còn khó khăn, còn có tình trạng "làm giá, thổi giá" đẩy giá đất lên quá cao,…
Nguyên nhân chủ yếu là do: độ trễ của chính sách pháp luật, trình tự thủ tục hành chính (về phê duyệt phân khu, quy hoạch chi tiết, về thủ tục đầu tư, định giá đất) còn kéo dài; khả năng tiếp cận tín dụng; nhiều dự án có vướng mắc chậm được giải quyết, thiếu hệ thống thông tin, dữ liệu giao dịch thị trường, dự báo thị trường, các công cụ điều tiết của nhà nước chưa được triển khai thực hiện hiệu quả.
Để thị trường bất động sản và nhà ở phát triển lành mạnh, bền vững, bảo đảm đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho người dân, Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ: Xây dựng, Tài chính, Nông nghiệp và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương rà soát các vướng mắc, mâu thuẫn, chồng chéo, các quy định chuyển tiếp trong các văn bản Luật, Nghị định, Thông tư để đề xuất sửa đổi đảm bảo minh bạch, dễ hiểu, dễ làm.
Đánh giá toàn bộ quy trình thực hiện dự án bất động sản
Phó Thủ tướng yêu cầu cần đánh giá toàn bộ quy trình thực hiện dự án bất động sản từ thẩm định, phê duyệt các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, thủ tục đầu tư, xác định giá đất, thiết kế kỹ thuật, thiết kế cơ sở, bản vẽ thi công, cấp phép xây dựng để đơn giản hóa, tích hợp, lồng ghép thủ tục, rút ngắn thời gian, chi phí tuân thủ; đảm bảo rõ trách nhiệm của từng cơ quan; thực hiện các thủ tục trên môi trường điện tử, thông suốt, minh bạch, hiệu quả.
Kịp thời có hướng dẫn địa phương áp dụng pháp luật thống nhất, nhất là các quy định chuyển tiếp của pháp luật đất đai, đầu tư, quy hoạch, nhà ở để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án giải phóng nhanh nguồn lực đầu tư của nhà nước, nguồn lực xã hội và nguồn lực đất đai.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Xây dựng khẩn trương xây dựng, thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin thị trường bất động sản, trong đó bao gồm: dữ liệu về giao dịch bất động sản, giá bất động sản, phân tích dự báo cung - cầu của thị trường để trên cơ sở đó Nhà nước chủ động điều tiết thị trường thông qua: quy hoạch, kế hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển đô thị, nhà ở để điều tiết nguồn cung; điều chỉnh tiến độ, cơ cấu sản phẩm dự án bất động sản; điều hành chính sách tài chính, tín dụng, sử dụng các công cụ thuế phù hợp tình hình thị trường trong từng thời kỳ. Nghiên cứu phát triển các trung tâm giao dịch bất động sản phù hợp với địa bàn, đối tượng giao dịch.
Bộ Xây dựng phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất chính sách thuế đối với các dự án bất động sản chậm triển khai, để hoang hóa gây lãng phí nguồn lực đầu tư của xã hội, tài nguyên đất đai; chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính các bộ, ngành liên quan nghiên cứu tích hợp các thủ tục đầu tư, phê duyệt thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật, phòng cháy chữa cháy,… vào giấy phép xây dựng để rút ngắn thời gian đầu tư xây dựng.
Bộ Xây dựng khẩn trương nghiên cứu ban hành các thiết kế mẫu tiêu chuẩn cho nhà ở xã hội, mở rộng tiêu chí, đối tượng thụ hưởng các chính sách nhà ở xã hội, các phương thức tiếp cận thuê, thuê mua, mua.
Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổng hợp các vướng mắc, kiến nghị, đề xuất các giải pháp báo cáo Ban Chỉ đạo và trình Chính phủ xem xét ban hành Nghị quyết để thúc đẩy phát triển thị trường bất động sản lành mạnh.
Ngăn ngừa các hành vi đầu cơ, thổi giá đất
Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính rà soát các quy định về đất đai, nhất là về thủ tục hành chính, định giá đất, giao nhiệm vụ cho đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện hoạt động tư vấn xác định giá khi không chọn được tư vấn giá đất, tiếp cận đất đai, các quy định chuyển tiếp để trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung trong tháng 6 năm 2025.
Khẩn trương hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu giá đất đến từng thửa đất trên cơ sở vùng giá trị, thửa đất chuẩn, tiến tới áp dụng một giá đất, bảo đảm minh bạch, công bằng, làm cơ sở thực hiện chính sách thuế bất động sản, ngăn ngừa các hành vi đầu cơ, thổi giá.
Nghiên cứu việc đánh thuế đối với đất hoang hóa, các dự án bất động sản, nhà ở chậm triển khai
Phó Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dưng, Bộ Công an và các cơ quan có liên quan để rà soát, đánh giá nợ xấu liên quan đến bất động sản, nhà ở để có giải pháp xử lý phù hợp bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng. Nghiên cứu mở rộng đối tượng tiếp cận tín dụng ưu đãi cho nhà đầu tư và người dân trong thực hiện chính sách nhà ở xã hội.
Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Xây dựng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu việc đánh thuế đối với đất hoang hóa, các dự án bất động sản, nhà ở chậm triển khai; tránh tình trạng đánh thuế chồng thuế.
Rà soát các dự án nhà ở tái định cư, thương mại xây xong không sử dụng để chuyển đổi sang nhà ở xã hội
Phó Thủ tướng yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tập trung giải quyết tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án bất động sản, rà soát, phân loại các dự án có vướng mắc pháp lý tương tự đối tượng được quy định trong Nghị quyết số 170/2025/QH15 của Quốc hội để khi Quốc hội cho phép mở rộng phạm vi áp dụng có thể thực hiện được ngay.
Căn cứ vào dự báo nhu cầu, chủ động chuẩn bị quỹ đất phát triển nhà ở xã hội bên cạnh 20% quỹ đất từ các dự án nhà ở thương mại tránh tình trạng nơi thiếu, nơi thừa; chủ động rà soát các dự án nhà ở tái định cư, nhà ở thương mại xây xong nhưng không sử dụng để đề xuất cấp có thẩm quyền cho phép chuyển đổi sang nhà ở xã hội.
Bộ Xây dựng - Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tổ chức họp Ban Chỉ đạo về tình hình hoạt động và triển khai các hoạt động trong Quý II năm 2025.

Tăng cường phòng ngừa, đấu tranh tội phạm ma túy có liên quan đến Fentanyl
Tại Văn bản 4557/VPCP-KGVX, Phó Thủ tướng Lê Thành Long yêu cầu một số Bộ liên quan nghiên cứu báo cáo của Bộ Công an để kịp thời có biện pháp phù hợp để tăng cường phòng ngừa, đấu tranh tội phạm ma túy có liên quan đến Fentanyl.
Theo báo cáo của Bộ Công an, Fentanyl được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1959; được đánh giá mạnh gấp 80 đến 100 lần so với morphine và khoảng 50 lần so với heroin; được sử dụng trong y học để điều trị các cơn đau nghiêm trọng và mãn tính. Sử dụng Fentanyl quá liều (từ 2mg Fentanyl) có thể dẫn đến ngừng thở, mất ý thức và tử vong.
Fentanyl đang bị lạm dụng phổ biến tại khu vực châu Mỹ, Mexico và một số nước Trung Mỹ và Nam Mỹ, gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, phức tạp về an ninh, kinh tế và xã hội. Trong khu vực Đông Nam Á, Fentanyl đã được phát hiện, thu giữ tại Myanmar, Lào, Thái Lan; điển hình trong năm 2024, Thái Lan từng triệt phá đường dây, thu giữ hơn 510 tấn Anilin, có thể sử dụng để sản xuất 85 tấn Fentanyl.
Hiện nay, lực lượng chức năng chưa phát hiện vụ việc liên quan đến sản xuất, mua bán bất hợp pháp Fentanyl tại Việt Nam; chưa phát hiện trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy dương tính với Fentanyl; chưa phát hiện các vụ tử vong do sử dụng Fentanyl (do hiện nay các vụ tử vong liên quan đến sử dụng ma túy chưa có yêu cầu bắt buộc xét nghiệm loại ma túy cụ thể). Lực lượng kỹ thuật hình sự của Bộ Công an đủ điều kiện để phát hiện chất Fentanyl nếu được trưng cầu giám định trong các vụ án về ma túy.
Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn có nguy cơ đối mặt với các hoạt động sản xuất, mua bán, vận chuyển và sử dụng Fentanyl bất hợp pháp. Thời gian tới, thị trường của loại chất này có xu thế mở rộng tại khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng thì nguy cơ xuất hiện của Fentanyl và các tiền chất, dẫn xuất liên quan một cách trái phép tại Việt Nam cảnh báo sẽ ở mức cao. Các băng nhóm ma túy có thể lợi dụng tuyến cảng biển, sân bay và biên giới đường bộ để vận chuyển Fentanyl từ các quốc gia sản xuất đến các thị trường tiêu thụ chính.
Đồng thời, không loại trừ khả năng các đối tượng tội phạm, nhất là từ Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á (Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia) có thể lựa chọn Việt Nam là địa điểm trung chuyển mới, để từ đó tìm cách vận chuyển trái phép Fentanyl và các tiền chất, dẫn xuất liên quan sang thị trường Hoa Kỳ, Mexico trong bối cảnh chuỗi cung ứng hiện nay có thể trở nên khó khăn hơn. Điều này sẽ không chỉ tác động tiêu cực đến lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam, mà có thể gây ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế giữa Việt Nam với các nước.
Sự xuất hiện của Fentanyl có thể làm gia tăng tình trạng nghiện ma túy ở Việt Nam, đặc biệt nếu Fentanyl được pha trộn vào heroin hoặc các loại ma túy khác. Điều này có thể làm gia tăng số lượng người nghiện và các vấn đề sức khỏe liên quan đến nghiện ma túy, tỷ lệ người chết do sử dụng ma túy sẽ tăng cao, gây ra nguy hại lớn trong xã hội.
Để tránh kiểm soát, phát hiện của các cơ quan chức năng, đối tượng tội phạm ma túy đã chuyển sang sử dụng các loại tiền - tiền chất (các loại hóa chất chưa được quy định trong danh mục tiền chất, nhưng chỉ cần một chu trình điều chế rất ngắn sẽ trở thành tiền chất) để sản xuất ma tuý bất hợp pháp. Đáng lo ngại là các hoá chất đầu vào chưa thuộc danh mục kiểm soát của Công ước quốc tế và của Việt Nam. Vì vậy, tiềm ẩn nguy cơ Việt Nam có thể trở thành địa bàn trung chuyển hoá chất, tiền chất Fentanyl.
Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Y tế kiểm soát chặt chẽ số thuốc có chứa Fentanyl đang sử dụng trong ngành y tế, tuyệt đối không để đưa ra thị trường bất hợp pháp.
Bộ Tài chính tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vận chuyển các loại hàng hóa, thực phẩm, đồ uống không rõ nguồn gốc xuất xứ có thể trà trộn các loại ma túy nói chung và Fentanyl bất hợp pháp vào Việt Nam. Tổ chức tập huấn, phổ biến, nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức Hải quan nắm vững và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát các hợp chất liên quan đến ma túy.
Bộ Công Thương quản lý chặt chẽ các loại hóa chất, không để các đối tượng lợi dụng để sản xuất Fentanyl trong nước. Tăng cường công tác nắm tình hình, kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi mua bán, vận chuyển, lưu hành các loại hàng hóa không có hóa đơn chứng từ để kịp thời phát hiện các hình thức ma túy núp bóng, trong đó có Fentanyl.
Bộ Quốc phòng tăng cường kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì mục đích quốc phòng theo quy định tại Nghị định số 105/2021/NĐ-CP; nâng cao hiệu quả phòng, chống ma túy tại địa bàn biên giới, trên biển, kịp thời phát hiện, ngăn chặn ma túy Fentanyl xâm nhập vào nước ta.
Xét báo cáo trên của Bộ Công an, Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã giao các Bộ: Y tế, Tài chính, Công Thương, Quốc phòng nghiên cứu báo cáo, đề xuất của Bộ Công an tại văn bản nêu trên để kịp thời có biện pháp phù hợp theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và quy định pháp luật để tăng cường phòng ngừa, đấu tranh đối với tội phạm ma túy có liên quan đến Fentanyl; kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền đối với những vấn đề vượt thẩm quyền./.

Ý kiến ()